Mô hình mô phỏng được sử dụng hàng ngày và vì vậy mô phỏng là một khái niệm không xa lạ với chúng ta. Ví dụ, các nhà dự báo thời tiết hàng ngày cho chúng ta thấy các mô phỏng của hệ thống thời tiết, để chúng ta thấy trước chuyển động của thời tiết trong những ngày tới.
Nhiều người trong chúng ta có các máy chơi game mô phỏng toàn bộ các hoạt động khác nhau, cho phép chúng ta kiểm tra các kỹ năng của mình như là người lái xe đua, nhà thám hiểm và nhà quy hoạch thành phố…
Theo nghĩa chung nhất, mô phỏng có thể được định nghĩa là:
Sự phỏng theo của một hệ thống.
Ý của “phỏng theo” đây là bắt chước hoặc sao chép một thứ khác.
Dựa trên định nghĩa trên, mô phỏng động sử dụng máy tính có thể được định nghĩa như sau:
Sự phỏng theo (trên máy tính) của một hệ khi nó diễn biến theo thời gian.
Một số khía cạnh của định nghĩa cần giải thích thêm. Đầu tiên là khái niệm “Hệ thống”, nói chung, một hệ thống là một tập hợp các bộ phận được tổ chức cho một số mục đích (Coyle 1996).
Checkland (1981) xác định bốn loại chính của hệ thống:
- Hệ thống tự nhiên: các hệ thống có nguồn gốc nằm trong nguồn gốc của vũ trụ, ví dụ: nguyên tử, hệ thống thời tiết Trái đất và hệ thống thiên hà.
- Hệ thống vật lý được thiết kế: là kết quả của thiết kế của con người, ví dụ: căn nhà, một chiếc xe hơi và một cơ sở sản xuất.
- Hệ thống trừu tượng được thiết kế: cũng là kết quả thiết kế của con người, ví dụ: toán học và văn học.
- Hệ thống hoạt động con người: hệ thống hoạt động của con người có ý thức, hoặc vô thức, được sắp xếp, ví dụ: một gia đình, một thành phố và hệ thống chính trị.
Nhiều tình huống trong đó mô phỏng được sử dụng nằm ở trung gian giữa các hệ thống vật lý được thiết kế và hệ thống hoạt động của con người. Ví dụ, hoạt động dịch vụ (ngân hàng, trung tâm cuộc gọi và siêu thị), nhà máy sản xuất, chuỗi cung ứng, hệ thống vận chuyển, khoa cấp cứu bệnh viện và hoạt động quân sự đều liên quan đến các yếu tố của cả hai lớp hệ thống.
Nói chung, các hệ thống này có thể được gọi là hệ thống hoạt động (operations systems) hoặc hệ thống điều hành (operating systems). Đây là khía cạnh thứ nhất của định nghĩa trên.
Khía cạnh thứ hai của định nghĩa cần khám phá là xem xét mục đích của mô hình mô phỏng. Theo Pidd (2003) mục đích của một mô phỏng có thể được mô tả là có được sự hiểu biết tốt hơn và/hoặc xác định các phương án cải tiến cho một hệ thống. Nâng cao sự hiểu biết về một hệ thống, cũng như việc xác định các cải tiến, điều này rất quan trọng vì nó định hình cho việc ra quyết định trong tương lai trong hệ thống thực.
Một đặc tính khác của mô tả mô hình mà Pidd nhấn mạnh là sự đơn giản hóa (simplification). Không thể dám chắc là một mô phỏng của hệ thống hoạt động, đặc biệt là các yếu tố hoạt động của con người, có thể thể hiện đầy đủ tính chi tiết của nó. Ngay cả khi điều đó là có thể, thì có lẽ là điều không mong muốn, vì thời gian cần thiết để thu thập dữ liệu và mô hình hóa mọi khía cạnh của một hệ thống sẽ là quá tốn kém.
Một khía cạnh cuối cùng cần xem xét là bản chất của việc sử dụng mô hình mô phỏng. Một mô phỏng chỉ đơn giản là dự đoán hiệu suất của một hệ thống hoạt động theo một bộ thông số đầu vào cụ thể. Chẳng hạn, nó có thể dự đoán thời gian chờ trung bình cho khách hàng gọi điện thoại đến một trung tâm cuộc gọi khi có một lượng điều hành viên làm việc.
Công việc của người sử dụng mô hình mô phỏng là thay đổi đầu vào (số lượng toán tử) và chạy mô hình để xác định hiệu ứng. Như vậy, mô phỏng là một cách tiếp cận thử nghiệm để mô hình hóa, nghĩa là, một công cụ phân tích nguyên nhân-kết quả (what-if). Người dùng mô hình nhập vào một kịch bản và mô hình dự đoán kết quả. Người dùng mô hình tiếp tục khám phá các kịch bản thay thế cho đến khi họ có đủ hiểu biết hoặc xác định cách cải thiện hệ thống thực.
Bốn khía cạnh này (hệ thống hoạt động, mục đích, đơn giản hóa và thử nghiệm) được thêm vào định nghĩa trước để mô phỏng được định nghĩa cụ thể hơn là:
Thử nghiệm với sự phỏng theo đơn giản hóa (trên máy tính) của một hệ thống hoạt động khi nó diễn biến theo thời gian, với mục đích hiểu rõ hơn và / hoặc cải thiện hệ thống đó.